Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

Cá bảy màu

 Cá bảy màu

Cá bảy màu (danh pháp hai phần: Poecilia reticulata)[1] là một trong những loại cá cảnh nước ngọt phổ biến nhất thế giới. Nó là một thành viên nhỏ của họ Cá khổng tước (Poeciliidae) (con cái dài 4–6 cm, con đực dài 2,5–3,5 cm) và giống như các thành viên khác của họ cá này, chúng là dạng cá đẻ trứng thai.

Nguồn gốc

Cá có nguồn gốc từ Jamaica, sống trong những vũng vịnh cạn, eo biển, mương rãnh và dọc theo bờ biển. Năm 1866, Robert John Lechmere Guppy sống ở đảo Trinidad thuộc British West Indies gửi một vài con cá này đến bảo tàng Anh để nhận dạng.Albert C. L. G. Gunther của bảo tàng này đặt tên khoa học cho nó là Girardinus guppii để ghi công Guppy vào cuối năm đó. Đến năm 1913, đặt tên lại là Lebistes reticulatus, tên khoa học chính thức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, loài cá này đã được Wilhelm Petersmô tả trước đó vào năm 1859 trong số sinh vật ông thu thập được từ Nam Mỹ. Mặc dù Girardinus guppii hiện nay được coi là từ đồng nghĩa của Poecilia reticulata, nhưng tên gọi "guppy" vẫn được sử dụng.[3] Theo thời gian cá bảy màu đã được đặt nhiều tên gọi khoa học khác, nhưng hiện tại Poecilia reticulata là danh pháp được coi là hợp lệ.
Giá trung bình từ 10k trở lên

Cá vàng

Cá vàng


Cá vàng (danh pháp hai phần: Carassius auratus) là loài cá nước ngọt nhỏ thường được nuôi làm cảnh. Cá vàng là một trong những dòng cá được thuần hóa sớm nhất và ngày nay vẫn là một trong những loài cá cảnh phổ biến nhất cho cả bể cá trong nhà và hồ cá ngoài trời.

Nguồn gốc

Cá vàng được thuần hóa từ loài cá giếc Phổ (Carassius gibelio), một loài cá giếc màu nâu xám sẫm bản địa của châu Á.[2] Cá vàng được nhân giống theo màu lần đầu tiên tại Trung Quốc từ hơn 1000 năm trước. Do chọn giống, cá vàng đã phát triển thành nhiều giống khác nhau và hiện có nhiều màu sắc và hoa văn đa dạng, có hình dạng và kích thước khác nhiều do với giống cá diếc được thuần hóa ban đầu.[3]
Một con cá giếc Phổ với sắc vàng. Một vài con cá vàng đầu tiên có thể trông giống như thế này.


Đặc điểm

Cá vàng là thành viên tương đối nhỏ của họ Cá chép, họ cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Ngoài cá vàng, trong họ Cá chép còn có các thành viên nổi tiếng khác như cá tuế, cá lưới, cá chép, cá trắm đen, cá trắm cỏ  cá chép Koi v.v. Quá trình chọn giống qua nhiều thế kỷ đã tạo ra nhiều kiểu màu sắc khác nhau, một số khác xa với màu vàng của cá vàng nguyên gốc. Cá cũng có những hình dáng khác nhau và kiểu vây, đuôi, mắt khác nhau. Một số loại cá vàng ở các thái cực phải được nuôi trong bể kính trong nhà vì chúng yếu hơn các giống gần với giống tự nhiên ban đầu. Một số giống khác như cá vàng Shubunkin lại khỏe hơn và có thể sống trong hồ cá ngoài trời.
Cá vàng còn có thể thay đổi màu sắc theo phổ ánh sáng trong bể nuôi. Cá sống trong bể tối sẽ có màu nhạt hơn vào các buổi sáng và sẽ dần mất màu theo thời gian. Cá vàng có thể phát triển tới chiều dài khoảng 16 – 20 cm (6,3 - 7,87 inch).[4] Tuy nhiên, hiếm có con cá vàng nào đạt được đến kích thước này. Trong điều kiện tối ưu, cá vàng có thể sống hơn 20 năm, nhưng đa số cá vàng nuôi tại nhà thường chỉ sống dưới 6 tới 8 năm do phải sống trong điều kiện sống không tối ưu (chẳng hạn phải sống trong bể thủy tinh tròn). Con cá vàng già nhất đã ghi chép lại sống tới 49 năm
Con cá vàng dài nhất đo được là 47,4 xentimét (18,7 in) tính từ mũi đến hết đuôi tại Hapert, Hà Lan.[5] Con cá vàng cảnh dài nhất đã đo được thuộc giống oranda có tên gọi là Bruce. Con cá này đo được 40 xentimét (16 in) ở Hồng Kông năm 2002.[6][7]
Giá cá trung bình từ 20k trở lên


Cá rồng

Cá rng
Danh pháp cá rồng là một từ thông dụng để chỉ nhiều loại cá không có quan hệ. Trong tự nhiên chúng sống chủ yếu ở các hồ rộng hoặc ở những con sông lớn, trong đó có một số loài rất hiếm được liệt kê trong sách Đỏ của thế giới như: cá kim long quá bốicá huyết longcá kim long hồng vĩ. Trong thế giới cá cảnh, cá rồng châu Á là loại được xếp vào hàng đầu bởi vẻ đẹp, nét độc đáo và vấn đề tâm linh vì người ta cho rằng: Cá rồng là tượng trưng cho sự may mắn, phát tài lộc, đem lại hạnh phúc và xua đuổi tà ma làm cho phong thủy được tốt hơn.
Cá rồng đen
Cá rồng đen sống ở độ sâu 1.500m, thật sự là một dã thú tàn bạo của đại dương dù chỉ sở hữu một thân hình khiêm tốn. Cá rồng trưởng thành chỉ dài 15.2 cm, đầu to, răng dài và nhọn, râu ở dưới cằm và gắn với bộ phận phát quang. Ngoài ra, dọc hai bên thân của cá rồng cũng có khả năng tự phát sáng để thu hút bạn tình trong mùa giao phối, đồng thời có tác dụng làm con mồi phía dưới mất phương hướng. Cá rồng đen sinh trưởng ở hầu hết các vùng biển nhiệt đới trên thế giới.[1]
Loài cá khác có tên cá rồng


Chích chòe lửa

Chích chòe lửa
Chích chòe đuôi trắng, tên khoa học Copsychus malabaricus, là một loài chim trong họ Muscicapidae.[2] Đây là loài bản địa các khu vực sinh sống có cây cói rậm ở tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á, là loài chim được người ta nuôi làm chim cảnh và đuọwc du nhập vào một số khu vực khác.

Miêu tả

Chúng có cân nặng thường từ 28-34 g và thân dài từ 23-28 cm. Chim trống có màu đen bóng với bụng màu hạt dẻ và lông trắng trên đít và đuôi ngoài. Chim mái có màu nâu hơi xám và thường có thân ngắn hơn chim trống. Cả chim trống và chim mái đều có mỏ đen và chân hồng. Chim non có lông nâu hơi xám giống chim mái với ức có đốm. Loài chim này nhút nhát, hoạt động lúc hoàng hôn hoặc bình minh và có ý thức chiếm lãnh thổ rất cao. Lãnh thổ chúng chiếm đóng bao gồm có một chim trống và một chim mái và chim trống bảo vệ lãnh thổ rộng trung bình 0,09 ha nhưng mỗi giới có thể có các lãnh thổ khác nhau khi chúng không sinh sản. Tại Nam Á, chúng sinh sản từ tháng 1 đến tháng 9 nhưng chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 6 với mỗi tổ từ 4-5 quả trứng đẻ trong hốc cây[3]. Khi chim trống tán tỉnh chim mái, chim trống bay phía trên chima mái, có tiếng kêu chói tai sau đó vụt nhẹ và xòe lông đuôi. Sau đó cặp chim bay lên và xuống. Nếu con chim mái không thích, chim mái sẽ đe dọa chim trống với mỏ mở ra. Chim mái xây tổ một mình con chim trống đứng bảo vệ[4][5]. Tổ thường làm bằng rễ cây, lá cây, dương xỉ và thân cây. Chúng ấp 12-15 ngày và nuôi chim non trong tổ 12,4 ngày. Cả chim bố và chim mẹ nuôi chim con nhưng chỉ chim mẹ ấp trứng và con. Loài chim này ăn côn trùng trong tự nhiên nhưng chim nuôi nhốt có thể ăn trứng luộc, thịt, rau khô và thịt tuơi[6].

Giá trung bình từ 500k-2 triệu tùy xuất sứ

Chim sáo nâu

Chim sáo nâu
Chim sáo là giống rất phổ biến ở Việt Nam, chúng là loại có ở bất cứ nơi nào có ruộng đồng thì nơi đó có chim sáo, nơi nào có trâu bò gặm cỏ là nơi đó có vài con sáo đậu trên lưng trâu bò.
Chim sáo loài chim rất dạn chúng thường suất hiện ở những nơi ruộng đồng mới cày sới để bắt con giun, con dế, kể cả có người chúng cũng không sợ.
Nuôi chim sáo là thú vui của nhiều người, thích nhất là khi chúng bập bẹ nói theo chúng ta đôi ba câu, như những đứa trẻ mới tập nói. Nhưng để nuôi được một con chim sáo hót hay nói giỏi thì người nuôi cần nắm được những đặc tính của loài sáo. Và nắm bắt cơ bản về kỹ thuật nuôi; Nay kỹ thuật nhà nông xin giới thiệu tới bà con bài viết về kỹ thuật nuôi chim sáo.
Đôi nét về chim sáo : Chim sáo có thân hình nhỏ hơn chim cưỡng và có nhiều loại; Sáo sành, sáo nghệ, sáo trâu, sáo sậu, sáo bông… nhưng chỉ có 2 loại sáo sậu và sáo trâu là bắt chiếc được tiếng người thôi.
Đặc điểm của sáo sậu hay gọi là sáo nâu; Có bộ long xấy xí y như bộ áo của thầy tu, chân và mỏ màu vàng, gián cánh, chót cánh và phần trên đuôi màu đen lợ, bụng màu vàng nâu. Mí mắt có một vành da mỏng màu vàng; Chim trống thì miến da vàng ở đuôi mắt dày ra, chim sáo cái thì miếng da ngắn lại giống như chim cưỡng.
Đặc điểm của sáo trâu hay gọi là sáo đen; Thân mình dài hơn sáo sậu, mỏ và chân màu vàng toàn thân long màu đen, trên đầu có lông dựng đứng trông rất đẹp.

Giá từ 80k cho chim non , chim sáo người nuôi thường chọn chim non nuôi lên vì có thể thả không cần lồng

Chim chào mào

Chim chào mào
Chào mào, tên khoa học Pycnonotus jocosus, là một loài chim trong họ Pycnonotidae
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.
Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.





Giá trung bình từ 100k – hơn 1 triệu

Chim họa mi

Chim Họa Mi
Phân b và môi trường sng
Phân loài đề cử G. c. canorus phân bố trên khắp đông nam và miền trung Trung Quốc và ở miền bắc và miền trung Việt Nam và Lào. Phân loài L. c. owstoni được tìm thấy trên đảo Hải NamG. c. canorus đã được du nhập đến Đài Loan, Singapore, Nhật Bản và Hawaii. Tại quần đảo Hawaii nó đã được giới thiệu vào đầu thế kỷ 20 và bây giờ xảy ra ở cả rừng tự nhiên và môi trường sống nhân tạo. Loài này phổ biến trên đảo Kauai, Maui và đảo Hawaii nhưng kém hơn về Oahu và Molokai. Chúng sinh sống ở vùng cây bụi, rừng mở, rừng thứ sinh, vườn và công viên lên đến độ cao 1800 mét so với mực nước biển. Họa mi phổ biến ở nhiều phạm vi của nó và không được coi là một loài bị đe dọa.
Chim hót rất hay , đang rất được ưa chuộng ở Việt Nam , là loài chim rất khó thuần

Giá trung bình từ 500k trở lên , chim đã thuần giá từ 2 triệu