Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

Cá bảy màu

 Cá bảy màu

Cá bảy màu (danh pháp hai phần: Poecilia reticulata)[1] là một trong những loại cá cảnh nước ngọt phổ biến nhất thế giới. Nó là một thành viên nhỏ của họ Cá khổng tước (Poeciliidae) (con cái dài 4–6 cm, con đực dài 2,5–3,5 cm) và giống như các thành viên khác của họ cá này, chúng là dạng cá đẻ trứng thai.

Nguồn gốc

Cá có nguồn gốc từ Jamaica, sống trong những vũng vịnh cạn, eo biển, mương rãnh và dọc theo bờ biển. Năm 1866, Robert John Lechmere Guppy sống ở đảo Trinidad thuộc British West Indies gửi một vài con cá này đến bảo tàng Anh để nhận dạng.Albert C. L. G. Gunther của bảo tàng này đặt tên khoa học cho nó là Girardinus guppii để ghi công Guppy vào cuối năm đó. Đến năm 1913, đặt tên lại là Lebistes reticulatus, tên khoa học chính thức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, loài cá này đã được Wilhelm Petersmô tả trước đó vào năm 1859 trong số sinh vật ông thu thập được từ Nam Mỹ. Mặc dù Girardinus guppii hiện nay được coi là từ đồng nghĩa của Poecilia reticulata, nhưng tên gọi "guppy" vẫn được sử dụng.[3] Theo thời gian cá bảy màu đã được đặt nhiều tên gọi khoa học khác, nhưng hiện tại Poecilia reticulata là danh pháp được coi là hợp lệ.
Giá trung bình từ 10k trở lên

Cá vàng

Cá vàng


Cá vàng (danh pháp hai phần: Carassius auratus) là loài cá nước ngọt nhỏ thường được nuôi làm cảnh. Cá vàng là một trong những dòng cá được thuần hóa sớm nhất và ngày nay vẫn là một trong những loài cá cảnh phổ biến nhất cho cả bể cá trong nhà và hồ cá ngoài trời.

Nguồn gốc

Cá vàng được thuần hóa từ loài cá giếc Phổ (Carassius gibelio), một loài cá giếc màu nâu xám sẫm bản địa của châu Á.[2] Cá vàng được nhân giống theo màu lần đầu tiên tại Trung Quốc từ hơn 1000 năm trước. Do chọn giống, cá vàng đã phát triển thành nhiều giống khác nhau và hiện có nhiều màu sắc và hoa văn đa dạng, có hình dạng và kích thước khác nhiều do với giống cá diếc được thuần hóa ban đầu.[3]
Một con cá giếc Phổ với sắc vàng. Một vài con cá vàng đầu tiên có thể trông giống như thế này.


Đặc điểm

Cá vàng là thành viên tương đối nhỏ của họ Cá chép, họ cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Ngoài cá vàng, trong họ Cá chép còn có các thành viên nổi tiếng khác như cá tuế, cá lưới, cá chép, cá trắm đen, cá trắm cỏ  cá chép Koi v.v. Quá trình chọn giống qua nhiều thế kỷ đã tạo ra nhiều kiểu màu sắc khác nhau, một số khác xa với màu vàng của cá vàng nguyên gốc. Cá cũng có những hình dáng khác nhau và kiểu vây, đuôi, mắt khác nhau. Một số loại cá vàng ở các thái cực phải được nuôi trong bể kính trong nhà vì chúng yếu hơn các giống gần với giống tự nhiên ban đầu. Một số giống khác như cá vàng Shubunkin lại khỏe hơn và có thể sống trong hồ cá ngoài trời.
Cá vàng còn có thể thay đổi màu sắc theo phổ ánh sáng trong bể nuôi. Cá sống trong bể tối sẽ có màu nhạt hơn vào các buổi sáng và sẽ dần mất màu theo thời gian. Cá vàng có thể phát triển tới chiều dài khoảng 16 – 20 cm (6,3 - 7,87 inch).[4] Tuy nhiên, hiếm có con cá vàng nào đạt được đến kích thước này. Trong điều kiện tối ưu, cá vàng có thể sống hơn 20 năm, nhưng đa số cá vàng nuôi tại nhà thường chỉ sống dưới 6 tới 8 năm do phải sống trong điều kiện sống không tối ưu (chẳng hạn phải sống trong bể thủy tinh tròn). Con cá vàng già nhất đã ghi chép lại sống tới 49 năm
Con cá vàng dài nhất đo được là 47,4 xentimét (18,7 in) tính từ mũi đến hết đuôi tại Hapert, Hà Lan.[5] Con cá vàng cảnh dài nhất đã đo được thuộc giống oranda có tên gọi là Bruce. Con cá này đo được 40 xentimét (16 in) ở Hồng Kông năm 2002.[6][7]
Giá cá trung bình từ 20k trở lên


Cá rồng

Cá rng
Danh pháp cá rồng là một từ thông dụng để chỉ nhiều loại cá không có quan hệ. Trong tự nhiên chúng sống chủ yếu ở các hồ rộng hoặc ở những con sông lớn, trong đó có một số loài rất hiếm được liệt kê trong sách Đỏ của thế giới như: cá kim long quá bốicá huyết longcá kim long hồng vĩ. Trong thế giới cá cảnh, cá rồng châu Á là loại được xếp vào hàng đầu bởi vẻ đẹp, nét độc đáo và vấn đề tâm linh vì người ta cho rằng: Cá rồng là tượng trưng cho sự may mắn, phát tài lộc, đem lại hạnh phúc và xua đuổi tà ma làm cho phong thủy được tốt hơn.
Cá rồng đen
Cá rồng đen sống ở độ sâu 1.500m, thật sự là một dã thú tàn bạo của đại dương dù chỉ sở hữu một thân hình khiêm tốn. Cá rồng trưởng thành chỉ dài 15.2 cm, đầu to, răng dài và nhọn, râu ở dưới cằm và gắn với bộ phận phát quang. Ngoài ra, dọc hai bên thân của cá rồng cũng có khả năng tự phát sáng để thu hút bạn tình trong mùa giao phối, đồng thời có tác dụng làm con mồi phía dưới mất phương hướng. Cá rồng đen sinh trưởng ở hầu hết các vùng biển nhiệt đới trên thế giới.[1]
Loài cá khác có tên cá rồng


Chích chòe lửa

Chích chòe lửa
Chích chòe đuôi trắng, tên khoa học Copsychus malabaricus, là một loài chim trong họ Muscicapidae.[2] Đây là loài bản địa các khu vực sinh sống có cây cói rậm ở tiểu lục địa Ấn Độ và Đông Nam Á, là loài chim được người ta nuôi làm chim cảnh và đuọwc du nhập vào một số khu vực khác.

Miêu tả

Chúng có cân nặng thường từ 28-34 g và thân dài từ 23-28 cm. Chim trống có màu đen bóng với bụng màu hạt dẻ và lông trắng trên đít và đuôi ngoài. Chim mái có màu nâu hơi xám và thường có thân ngắn hơn chim trống. Cả chim trống và chim mái đều có mỏ đen và chân hồng. Chim non có lông nâu hơi xám giống chim mái với ức có đốm. Loài chim này nhút nhát, hoạt động lúc hoàng hôn hoặc bình minh và có ý thức chiếm lãnh thổ rất cao. Lãnh thổ chúng chiếm đóng bao gồm có một chim trống và một chim mái và chim trống bảo vệ lãnh thổ rộng trung bình 0,09 ha nhưng mỗi giới có thể có các lãnh thổ khác nhau khi chúng không sinh sản. Tại Nam Á, chúng sinh sản từ tháng 1 đến tháng 9 nhưng chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 6 với mỗi tổ từ 4-5 quả trứng đẻ trong hốc cây[3]. Khi chim trống tán tỉnh chim mái, chim trống bay phía trên chima mái, có tiếng kêu chói tai sau đó vụt nhẹ và xòe lông đuôi. Sau đó cặp chim bay lên và xuống. Nếu con chim mái không thích, chim mái sẽ đe dọa chim trống với mỏ mở ra. Chim mái xây tổ một mình con chim trống đứng bảo vệ[4][5]. Tổ thường làm bằng rễ cây, lá cây, dương xỉ và thân cây. Chúng ấp 12-15 ngày và nuôi chim non trong tổ 12,4 ngày. Cả chim bố và chim mẹ nuôi chim con nhưng chỉ chim mẹ ấp trứng và con. Loài chim này ăn côn trùng trong tự nhiên nhưng chim nuôi nhốt có thể ăn trứng luộc, thịt, rau khô và thịt tuơi[6].

Giá trung bình từ 500k-2 triệu tùy xuất sứ

Chim sáo nâu

Chim sáo nâu
Chim sáo là giống rất phổ biến ở Việt Nam, chúng là loại có ở bất cứ nơi nào có ruộng đồng thì nơi đó có chim sáo, nơi nào có trâu bò gặm cỏ là nơi đó có vài con sáo đậu trên lưng trâu bò.
Chim sáo loài chim rất dạn chúng thường suất hiện ở những nơi ruộng đồng mới cày sới để bắt con giun, con dế, kể cả có người chúng cũng không sợ.
Nuôi chim sáo là thú vui của nhiều người, thích nhất là khi chúng bập bẹ nói theo chúng ta đôi ba câu, như những đứa trẻ mới tập nói. Nhưng để nuôi được một con chim sáo hót hay nói giỏi thì người nuôi cần nắm được những đặc tính của loài sáo. Và nắm bắt cơ bản về kỹ thuật nuôi; Nay kỹ thuật nhà nông xin giới thiệu tới bà con bài viết về kỹ thuật nuôi chim sáo.
Đôi nét về chim sáo : Chim sáo có thân hình nhỏ hơn chim cưỡng và có nhiều loại; Sáo sành, sáo nghệ, sáo trâu, sáo sậu, sáo bông… nhưng chỉ có 2 loại sáo sậu và sáo trâu là bắt chiếc được tiếng người thôi.
Đặc điểm của sáo sậu hay gọi là sáo nâu; Có bộ long xấy xí y như bộ áo của thầy tu, chân và mỏ màu vàng, gián cánh, chót cánh và phần trên đuôi màu đen lợ, bụng màu vàng nâu. Mí mắt có một vành da mỏng màu vàng; Chim trống thì miến da vàng ở đuôi mắt dày ra, chim sáo cái thì miếng da ngắn lại giống như chim cưỡng.
Đặc điểm của sáo trâu hay gọi là sáo đen; Thân mình dài hơn sáo sậu, mỏ và chân màu vàng toàn thân long màu đen, trên đầu có lông dựng đứng trông rất đẹp.

Giá từ 80k cho chim non , chim sáo người nuôi thường chọn chim non nuôi lên vì có thể thả không cần lồng

Chim chào mào

Chim chào mào
Chào mào, tên khoa học Pycnonotus jocosus, là một loài chim trong họ Pycnonotidae
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.
Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.





Giá trung bình từ 100k – hơn 1 triệu

Chim họa mi

Chim Họa Mi
Phân b và môi trường sng
Phân loài đề cử G. c. canorus phân bố trên khắp đông nam và miền trung Trung Quốc và ở miền bắc và miền trung Việt Nam và Lào. Phân loài L. c. owstoni được tìm thấy trên đảo Hải NamG. c. canorus đã được du nhập đến Đài Loan, Singapore, Nhật Bản và Hawaii. Tại quần đảo Hawaii nó đã được giới thiệu vào đầu thế kỷ 20 và bây giờ xảy ra ở cả rừng tự nhiên và môi trường sống nhân tạo. Loài này phổ biến trên đảo Kauai, Maui và đảo Hawaii nhưng kém hơn về Oahu và Molokai. Chúng sinh sống ở vùng cây bụi, rừng mở, rừng thứ sinh, vườn và công viên lên đến độ cao 1800 mét so với mực nước biển. Họa mi phổ biến ở nhiều phạm vi của nó và không được coi là một loài bị đe dọa.
Chim hót rất hay , đang rất được ưa chuộng ở Việt Nam , là loài chim rất khó thuần

Giá trung bình từ 500k trở lên , chim đã thuần giá từ 2 triệu

Chó phóc sóc

Chó phóc sóc
Chó Phốc sóc (Pomeranian gọi tắt là Pom) là một giống chó cảnh cỡ nhỏ, có ngoại hình xinh xắn, có nguồn gốc từ châu Âu, chúng nổi tiếng và được ưa chuộng bởi ngoại hình bắt bắt của mình. Với tiếng sủa vang rền, dai dẳng không dứt khả năng cảnh giác cao độ, những con chó này lại có thể trở thành những chon canh giữ cửa tốt. Những ưu điểm khác của giống chó Pom như trông nhà, rất lanh lợi và có thể biểu diễn được những kĩ xảo nhỏ trong điều kiện được luyện tập.

Tng quan

Chó Pom được lấy tên từ địa danh Pomerania là vùng đất ở Trung Âu ngày xưa, ứng với miền Tây Bắc Ba Lan và Đông Bắc Đức ngày nay và nguồn gốc của chúng là từ giống Spitz cổ. Lúc đầu, những con chó Pom to hơn hiện nay nhiều với cân nặng có khi lên đến khoảng 13 kg và hay được giao cho nhiệm vụ chăn cừu. Vào năm 1988, Nữ hoàng Victoria đã nhân giống loài chó này và chính bà đã khiến kích cỡ của chúng nhỏ lại và nhờ thế chúng bắt đầu trở nên rất phổ biến ở Anh.

Ngoại hình

Chó Pom là giống chó cỡ nhỏ, kích thước chỉ cỡ bằng một món đồ chơi, Chiều cao từ 7-12 inches (18–30 cm), trọng lượng từ 3-7 pounds (1–3 kg), chúng có cái đầu hình nêm và rất cân xứng với cơ thể, một số con có gương mặt giống như loài cáo, một số con khác lại giống như búp bê. Đôi mắt chúng hình quả hạnh, to vừa phải và có màu sẫm, trông rất sáng và thể hiện rõ sự linh lợi và thông minh. Tai chó Phốc sóc nhỏ nhắn, nhọn dựng thẳng trên đầu, hàm răng hình kéo và cái mũi be bé sẽ cùng màu với bộ lông. Chúng có cái đuôi xù, trông rất mềm mại và uốn cong lên lưng. Giống chó này cũng có bộ lông kép dày với lớp ngoài dài, thẳng và hơi cứng còn lớp trong thì ngắn, mềm và dày. Lớp lông ở vùng cổ và ngực chúng sẽ dài hơn. Nhìn chung trông chúng nhỏ nhắn xinh xắn, ấm áp và mềm mại. Màu lông của chúng cũng khá đa dạng: có thể là màu đỏ, cam, kem, trắng, xanh, nâu, đen…

Thể chất

Chó Pom cũng thuộc một giống chó khó tính trong việc ăn uống, chúng khá kén ăn. Chó Pom rất hay bị rụng lông (lớp ngoài) và lớp lông mềm ở dưới của chó Pom sẽ rụng một đến hai lần một năm. Chó Pom có xu hướng bị trật xương khớp gối, khuỷu chân sau, bệnh tim, viêm nhiễm mắt, sâu răng và bị rụng răng sớm. Nên cho chó Pom ăn thức ăn khô dành cho chó và xương sữa cứng giòn để có thể giúp răng và lợi chúng khỏe hơn. Những con chó Pom mẹ có kích cỡ nhỏ thường được cho sinh mổ. Và giống chó này khi về già cũng có thể phải đối mặt với vấn đề rụng lông và hói. Tuy nhiên, vì lớp lông xù dày nên chủ nuôi cũng cần phải cẩn thận để tránh chúng bị quá nóng. Thường xuyên chải lông cho những chú chó Pom vì chúng có bộ lông hai lớp rất dày và nên dùng dầu gội khô khi cần thiết.

Tp tính


Chó Pom tuy nhỏ bé nhưng tính cách thật sự rất sôi nổi và sống động. Chúng rất thông minh, ham học hỏi và trung thành, tò mò và hiếu động. Tuy tinh nghịch như vậy, nhưng bản tính của chó Pom lại khá dễ bảo và tình cảm, chính vì thế, chúng có thể là người bạn đồng, cũng có thể là một diễn viên xiếc tài năng. Chó Pom cũng khá độc lập, thuộc kiểu nhí nhảnh tự chơi tự vui nên đây là giống chó ít cần đồ chơi. Nên huấn luyện ngay từ đầu, để tránh chúng sủa dai dẳng không dứt. Nếu được dạy dỗ chu đáo thì giống chó này không hề gặp rắc rối gì trong việc hòa thuận với các vật nuôi khác trong nhà. Chúng khá thân thiện nhưng không bám dính chủ nhân. Là loại chó bầu bạn tốt với người cao tuổi.
Giống chó này bị xếp vào một trong những giống chó dễ mắc Hội chứng chó nhỏ (Small Dog Syndrome) đây là hội chứng mà những chú cún nhỏ xinh xắn sẽ rất khó chiều, hay yêu sách và nghĩ rằng mình mới là chủ của con người. Khi chó Pom đã mắc hội chứng này rồi thì không còn là dễ thương hay thông minh mà dẫn đến những vấn đề vô cùng lớn, những dấu hiệu mắc bệnh đầu tiên khi khi hành vi của chúng đã bị ảnh hưởng quá nhiều và có những đặc tính không hề thuộc về giống chó Pom xuất hiện như rất khó tính, đôi khi lại hay lo lắng, bướng bỉnh, liều lĩnh và dám cả gan tấn công cả những chú chó lớn hơn.
Loài này rất được ưa chuộng vì hình dáng nhỏ và dễ thương của chúng .
Giá trung bình từ 4-8 triệu


Chó corgi

Chó corgi
Chó Corgi xứ Wales cổ (Cardigan Welsh Corgi) là loại chó có xuất xứ từ Anh quốc ở xứ Wales, chúng thuộc giống chó chăn gia súc  chó săn đuổi, chúng đặc biệt thích chặn các con chuột xâm nhập lãnh địa để chơi trò đuổi bắt chuột. Chúng hay cắn vào gót chân của các con gia súc, thậm chí cả người, thân thể thấp lùn của chúng, giúp chúng tránh bị gia súc đá hậu.

Đc đim

Là loại chó với kích cỡ cơ thể trung bình, thân dài và chân thấp ngắn rõ rệt. Tầm vóc chúng khoảng 30,5 cm, Trọng lượng đạt 12 kg. Giống Corgi có truyền thống được dùng làm chó săn, chăn dắt gia súc lớn bằng cách chạy theo đàn gia súc và cắn vào gót chân con vật nào không chịu theo đàn, đôi lúc loại này cũng đớp chủ mình. Thân thể thấp lùn của chúng, giúp chúng tránh bị gia súc đá hậu. Có màu nâu đỏ, đen, titan, có yếm trắng hoặc không.
Hàng ngày chúng cần chạy nhảy nhiều. Tuổi thọ khoảng 15 năm. Welsh Corgi Pembroke thích chặn các con chuột dám xâm nhập lãnh địa để chơi trò đuổi bắt và hay đặt vấn đề thứ bậc. Nuôi giống chó này cần áp dụng một chế độ dinh dưỡng nghiêm ngặt vì chúng rất dễ tăng trọng, cũng cần cho tập luyện tối đa, và không cần phải dẫn chạy bộ đường dài, chúng cần hoạt động và tập luyện thường xuyên để tránh nguy cơ béo phì.

Tp tính

Trở thành người bạn đồng hành với loài người, giống Corgi chứng tỏ được sự thông minh, dễ sai bảo, dễ huấn luyện. Chúng là một loài vật nuôi trung thành, trìu mến và hiền hòa. Khác với người anh em Pembroke, Cardigan Welsh Corgi có đuôi dài và rậm hơn, và chúng có thể thích nghi với cả cuộc sống nông thôn và thành phố. Tuy nhiên chúng thích trẻ con và do đó được nuôi nhiều trong các gia đình. Cần được huấn luyện nghiêm túc để giảm ương bướng.

 Giá rất cao vì là dòng chó cao quý 30 triệu trở lên .

Chó rottweiler

Chó rottweiler
Rottweiler hay còn gọi là rốt, rotti là một giống chó có nguồn gốc ở Đức được dùng như loại chó chăn gia súc nhưng thường được huấn luyện để trở thành chó nghiệp vụ. Chúng còn là những con chó chiến đấu và có khả năng chịu đựng được các vết thương. Rottweiler còn là loài chó khoẻ mạnh, thông minh. Dù trông vẻ ngoài dữ dẵn nhưng chúng biết nghe lời và là những người bảo vệ tốt. Chúng ít thân thiện với người lạ nhưng với người quen lại tỏ ra dễ mến. Nhìn chung, Rottweilers là một giống chó mạnh mẽ với thói quen sống bầy đàn và bản năng bảo vệ. Hành vi nguy hiểm tiềm tàng trong Rottweilers thường do sự vô trách nhiệm, lạm dụng, bỏ bê, thiếu huấn luyện của con người. Tuy nhiên, sức mạnh của Rottweiler không nên bỏ qua vì chúng là một trong những giống chó nguy hiểm,[1] lực cắn của chúng có thể lên đến 136 kg

Tng quan

Rottweiler được mang tên một thị trấn miền nam nước Đức, nơi phát hiện ra giống chó này. Giống chó Rottweiler có nguồn gốc từ giống chó ngao Ý. Chúng được lai tạo tại thành phố Rottweil bang Wurttemberg, Đức và xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1800, giống chó mới này dần dần trở nên nổi tiếng vào những năm giữa thể kỷ 20 nhờ các nhà lai tạo giống ở Stuttgart. Trong lịch sử, chúng được dùng như loại chó chăn gia súc. Tổ tiên của nó là loài có cổ xưa từ thời La Mã, phục vụ cho quân đội trong chiến tranh, săn bắn thời trung cổ hay kéo xe thồ chở sửa thay thế cho ngựa hoặc chăn giử cừu là những điều con người tận dụng được từ loài chó này, từ 1910 cho đến nay giống cho này được chính thức công nhận là chó cảnh sát. Như vậy, ban đầu nó được sử dụng để chăn gia súc, mặc dù cuối cùng nó được huấn luyện để trở thành một con chó có thể được sử dụng cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu, hướng dẫn cho người mù hoặc là cảnh sát và chó bảo vệ.[3]
Các đặc tính, ưu điểm tiêu biểu của giống chó này là khả năng theo dõi, chăn dắt gia súc, canh gác, bảo vệ, chó cảnh sát, kéo xe và chó chiến đấu. Đây là giống chó có thể phục vụ trong những công việc đặc biệt, nó có những tính cách mạnh mẽ, Ngày nay, Rottweiler được sử dụng trong việc canh gác, tìm kiếm, bảo vệ, trinh sát của lực lượng cảnh sát và bộ đội biên phòng, ở nhiều nước giống chó này được coi như một người bạn, một phương tiện canh gác, giữ nhà, nhìn chung chung là hiền lành và điềm tĩnh, mặc dù nó có thể không chào đón người lạ vì những bản năng lãnh thổ và canh gác.

Đc đim

Rottweiler là một con chó cỡ lớn, không quá nặng cũng không quá nhẹ, không quá cơ bắp cũng không gầy yếu. Một con chó tiêu chuẩn là thân hình phải mạnh mẽ và rắn chắc, cho thấy toàn bộ sức mạnh, tính linh hoạt và tính điềm tĩnh.

Hình dáng

Đặc điểm nổi bật của giống chó này là tầm vóc lớn, có hình dáng cân đối và vững chắc. Cao trung bình chung từ 58 – 68 cm, nặng từ 42 – 50 kg. Rottweiler có thân hình to lớn và mạnh mẽ. Hệ cơ bắp chúng phát triển rất tốt, tuy vậy không ảnh hưởng đến tính nhanh nhẹn của chúng. Chúng có chiều cao từ 24 - 27 inches (61 – 69 cm), chó cái cao từ 22 – 25 inches (56–63 cm). Chúng cân nặng từ 95 - 130 pounds (43 – 59 kg), chó cái nặng từ 85 – 115 pounds (38 – 52 kg). Chiều dài thân, tính từ xương ức đến xương ụ ngồi không vượt quá chiều cao tính đến vai, nhiều nhất là 15%.
Đầu của nó có dạng hình cầu, khoảng cách giữa hai tai lớn, mõm to bè. Mắt có màu nâu đen rất linh hoạt, có đốm vàng ở gò má trên mắt, mõm, bốn chân. Đầu chúng to và nặng. Trán tròn, cổ có chiều dài trung bình, rất cơ bắp, hơi cong, không có phần da bùng nhùng dưới cổ. Hàm rất phát triển và rất khoẻ, cộng với hàm răng khoẻ và sắc bén, hàm trên và hàm dưới rộng và khỏe, bộ răng hoàn chỉnh gồm 42 răng, mặt cắt kéo, răng cửa hàm trên gối lên hàm dưới.
Lưng chúng thẳng, khỏe, vững chắc. Hông ngắn, khỏe và sâu. Mông rộng có chiều dài trung bình, hơi tròn, không phẳng cũng không gầy. Ngực nở,rộng và sâu (ước chừng 50% chiều cao vai) phần ngực trước rất phát triển. Bụng: phần eo không tóp lại. Mắt có màu sẫm luôn biểu hiện thiện chí và trung thành, phục tùng. Tai hình tam giác, luôn hướng về phía trước. Mũi đen và to. Môi có màu đen và thậm chí phần phía trong của mõm cũng có màu sẫm. Vai rất phát triển. Cẳng tay rất cơ bắp và phát triển.

Thể chất

Rottweiler sống lâu khoảng 10 - 12 năm. Chó Rot thường được bấm bỏ đuôi khi mới sinh ra. Thông thường khi mới sinh người ta thường bấm bỏ móng chân bên cạnh cùng với lúc bấm đuôi. Bộ lông ngắn, cứng và khá dày. Chúng có bộ lông hấp dẫn và có tính di truyền tốt. Thông thường có màu đen pha nâu ở các phần má, mõm, chân và bàn chân.
Đôi khi có thể gặp các cá thể có màu hung đỏ pha nâu. Rất hiếm gặp màu lông sáng hơn. Chó Rot cái thường rất mắn đẻ, có trường hợp sinh được 12 chó con. Các bệnh có thể gặp như chúng dễ gặp các căn bệnh liên quan đến di truyền và huyết thống, dễ ngáy, hay bội thực nếu ăn nhiều, dễ mắc bệnh quặm mắt. Bộ lông mượt và ngắn dễ chăm sóc, chỉ tắm cho chúng khi cần thiết.

Tp tính

Rottweiler là giống chó rất điềm tĩnh, dễ dạy dỗ, can đảm và tận tuỵ đối với chủ nhân và gia đình chủ. Chúng có tính cách rất đáng tin. Với bản năng bảo vệ, chúng luôn bảo vệ gia chủ một cách tốt nhất. Là những con chó chiến đấu, chúng có khả năng chịu đựng được các vết thương. Tuy vậy, cần phải nuôi dạy chó Rot một cách chuyên nghiệp vì chúng có thể trở thành giống chó hung dữ rất nguy hiểm. Nếu dạy dỗ đúng cách, chúng sẽ trở nên một người bảo vệ trung thành, một người bạn đáng yêu và dễ chịu.
Chó rottweiler còn là một người bạn có thể đồng cảm và giúp đỡ con người vượt qua được những chấn thương tâm lý, làm giảm căng thẳng trong công việc, sự hiện diện của một chú Chó rottweiler giúp con người bớt căng thẳng và lo lắng hơn, giảm đi căn bệnh trầm cảm. Chó rottweiler có sự nhạy bén về thính giác có thể phát hiện bệnh động kinh có thể cảnh báo bệnh nhân động kinh trước khi cơn co giật xảy ra. Chúng sẽ cảnh bào con người bằng cách sủa để cảnh báo, giúp tránh xa các chất dị ứng. Chúng còn có thể chữa lành vết thương đơn giản bằng cách liếm, nước bọt của cả con người và loài Chó Rottweiler, có thể giúp kích thích các dây thần kinh, cơ bắp.

Giá trung bình từ 5 triệu trở lên tùy xuất sứ